KÝ ỨC HÀO HÙNG VỀ SỨC MẠNH LÒNG DÂN
70 năm đã trôi qua, dư âm và dấu ấn của chiến thắng Điện Biên Phủ, một mốc son chói lọi, vẫn còn vang vọng ở nhiều nơi trên thế giới, trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến ngoại giao, văn hóa. Đây là một trong những trận chiến hiếm có của Chiến tranh Đông Dương đã nhận được sự quan tâm lớn của giới truyền thông, giới nghiên cứu trên thế giới, được nhắc lại như một sự kiện mang tầm quốc tế trong mỗi dịp kỷ niệm. Ở trong nước, Điện Biên Phủ được coi là biểu tượng của tinh thần quyết tâm tự lực, tự cường, chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta. Điện Biên Phủ là biểu tượng của lòng quả cảm, nguồn cảm hứng bất tận cho khát vọng độc lập, tự do, chính nghĩa của các dân tộc bị đô hộ, áp bức, bóc lột.
Sau 70 năm, từ một chiến trường đẫm máu, ngày nay, Điện Biên Phủ đã trở thành điểm hẹn của hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc. Như các tướng lĩnh và các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự đã chỉ ra, việc chọn trận Điện Biên Phủ là trận quyết chiến đều không nằm trong kế hoạch của cả ta và Pháp. Sự thay đổi kế hoạch từ đánh vào những điểm yếu của địch sang đánh vào nơi mạnh nhất của địch, khi mà Pháp tập trung quân mạnh nhất vào Điện Biên Phủ là sự thay đổi quyết định nhanh nhất của Đảng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam) là người được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao toàn quyền quyết định trong trận đánh. Các tư liệu lịch sử đã ghi lại, theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đại tướng trước khi ra trận: Phải chắc thắng mới đánh, vì tất cả quân lực của ta đã dồn vào trận đánh này. Từ lời căn dặn đó, Đại tướng đã quyết định chuyển phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, thắng chắc” để tiêu diệt và làm suy yếu dần đối phương, đồng thời giảm thương vong ở mức thấp nhất cho bộ đội. Chính vì vậy, trải qua 3 đợt tấn công liên tục bắt đầu từ 13/3/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, kiên cường, đến ngày 7/5/1954, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp - một “pháo đài bất khả xâm phạm” của quân đội thực dân Pháp lúc bấy giờ đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tướng De Castries, bộ tham mưu và sĩ quan, binh lính tập đoàn cứ điểm đã đầu hàng Việt Minh vô điều kiện, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève, tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trong hồi ức của các cựu chiến binh, điểm mấu chốt của chiến thắng chính nằm ở thế trận lòng dân cùng một tinh thần quyết chiến để cùng để quyết thắng. Tính cả trước và trong chiến dịch, có tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia làm và sửa chữa hàng trăm km đường cùng nhiều bến, cầu; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận… Khi đó, chỉ bằng sức người là chính, bộ đội đã kéo những khẩu pháo nặng hơn 2 tấn qua núi cao. Bộ đội và dân công đã sử dụng hơn 21.000 chiếc xe đạp thồ, được gọi với tên là “binh chủng xe đạp thồ” hoạt động trên suốt chiều dài gần 1.500km. Lực lượng xe đạp thồ được biên chế thành từng đoàn theo địa phương, mỗi đoàn có nhiều trung đội, mỗi trung đội từ 30 - 40 xe, chia thành các nhóm khoảng 5 xe để hỗ trợ nhau khi qua đèo, vượt dốc cao. Đội quân xe đạp thồ xuất hiện ở Điện Biên là một sự kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử.
Thời gian qua đi, cuộc sống thay đổi, nhưng ký ức về trận đánh Điện Biên Phủ hào hứng, những ngày tháng cùng đồng đội «khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt» chưa bao giời phai trong tâm trí những người đã đi qua lịch sử.
Tại hội thảo khoa học «Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực” năm 2019, cựu chiến binh Nguyễn Hữu Chấp (Đại đội 290, Tiểu đoàn 166, Trung đoàn 209, Đại Đoàn 312) đã xúc động chia sẻ về những giây phút vào sinh ra tử, trải qua thử thách của chiến tranh, đối diện với kẻ thù, với cái chết nhưng các chiến sĩ Điện Biên không nao núng, khiếp sợ. Ông cho biết, Đại đoàn 312 được Bộ chỉ huy mặt trận chọn tấn công vào cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch. Ông vẫn nhớ như in lời chỉ huy dặn “quyết tâm đánh thắng trận đầu, không để trận đánh kéo dài sang ngày hôm sau”. Ông cùng đồng đội viết quyết tâm thư, sẵn sàng xung phong hoàn thành nhiệm vụ trong ngày 13/3/1954. Đúng 0h, từ Tà Lèng, Đại đoàn 312 của ông hành quân, đến gần sáng thì đến cánh đồng quanh cứ điểm. Chỉ sau hơn 5 giờ chiến đấu, Đại đoàn đã hoàn toàn làm chủ được trung tâm đề kháng Him Lam, tạo sức lan tỏa nhanh chóng đối với bộ đội trên tất cả mặt trận.
BÀI HỌC CÒN NGUYÊN GIÁ TRỊ
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Việt Nam. Chiến thắng ấy mãi là mốc son chói lọi, một bản hùng ca vĩ đại của thời đại Hồ Chí Minh. 70 năm đã trôi qua, từ cánh đồng Mường Thanh lịch sử những bài học của thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là bài học về tập hợp và xây dựng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Sau nữa là bài học về phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giải quyết những vấn đề có tính chiến lược sống còn của đất nước. Thành công nổi bật trong xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Đảng ta đã hoạch định được đúng đắn đường lối, chính sách cụ thể nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết của toàn dân, thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ chiến dịch đã đề ra. Khối đại đoàn kết dân tộc đã được xây dựng trên cơ sở truyền thống yêu nước, đường lối kháng chiến của Đảng với mục tiêu là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là sợi chỉ đỏ, chất keo gắn kết mọi tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh để nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Cùng với đó, là sự nhạy bén nắm bắt tình hình, sớm phát hiện và nhận thức thời cơ, quyết đoán, sáng tạo trong thay đổi chủ trương, phương châm tác chiến cho phù hợp với thực tế nhằm đạt kết quả cao nhất, giành thắng lợi cuối cùng...
Chiến dịch Điện Biên Phủ đã để lại một trong những điều đặc biệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, đó là người dân tham gia vào chiến dịch này đông gấp nhiều lần quân đội. Có thể nói, không có sự đóng góp sức người, sức của to lớn đó của nhân dân thì không có chiến thắng Điện Biên Phủ và sự đóng góp ấy là kết quả của việc xây dựng và phát huy thế trận lòng dân dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong tình hình mới càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Tất cả nhằm xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhà báo NGUYỄN TRỌNG THẮNG
Link nội dung: https://chonghanggiavathitruong.vn/the-tran-long-dan-suc-manh-vo-dich-gop-phan-lam-nen-chien-thang-dien-bien-phu-251.html